Lễ hội Gầu tào của người Mông

Gầu tào - theo tiếng Mông có nghĩa là địa điểm chơi. Ở những nơi gần biên giới, người Mông còn gọi lễ hội này theo tiếng Quan Hỏa là Say Sán, nghĩa là đạp núi. Lễ hội Gầu tào hiện được tổ chức ở quy mô gia đình, mang tính chất là lễ tạ ơn thần linh và được cộng đồng hưởng ứng, đến góp vui.
 
Lễ hội không diễn ra thường xuyên, mà chỉ khi có gia đình nào lâm vào một trong 2 trường hợp sau mới tổ chức. Trường hợp thứ nhất, gia đình không có con, ít con hoặc sinh con một bề sẽ lên đồi Gầu tào quỳ khấn, xin thần linh ban cho con cái theo ước nguyện. Khi đứa trẻ được sinh ra, được đặt tên, mùa xuân năm đó, người ta sẽ làm Lễ Gầu tào để tạ ơn. Trường hợp thứ hai, gia đình có một vài thành viên trong nhà thường ốm đau, bệnh tật, mùa màng thất bát, vật nuôi còi cọc, kinh tế sa sút, cũng sẽ lên đồi Gầu tào quỳ khấn, xin thần linh cho gia đình mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi. Khi mọi tai ương đã hết, mùa xuân năm đó, người ta sẽ làm Lễ Gầu tào để tạ ơn.
 
Lễ hội Gầu tào ở Pha Long (Mường Khương).
 
Lễ hội Gầu tào được người Mông tổ chức vào tháng Giêng hằng năm, nhưng việc chuẩn bị phải được tiến hành từ cuối tháng Chạp với nghi lễ chặt tre và dựng cây nêu. Trung tâm của Lễ hội Gầu tào là cây nêu. Cây nêu được chọn từ cây tre, gọi theo tiếng Mông là “Sung lùng trử” có nghĩa là cây Long Thượng, gồm một cây cao khoảng 10 - 12 m, đường kính gốc khoảng 20 cm (gọi là “dìn sê”) và một cây thấp hơn khoảng 7 - 8 m, đường kính gốc khoảng 6 - 7 cm (gọi là “dìn sông”). Cây nêu phải thẳng đứng, gióng đều, vỏ xanh bóng, ngọn cây vươn về phía mặt trời mọc.
 
Nghi lễ chặt tre diễn ra tại gốc cây tre được chọn. Chủ lễ thắp một bó hương, đặt một sấp tiền mã ở gốc tre, rồi xòe ô che đầu, đi vòng quanh cây nêu ngược chiều kim đồng hồ (những người khác đi theo chủ lễ thành vòng tròn). Chủ lễ vừa đi, vừa hát bài hát chặt cây nêu. Cứ được một vòng, chủ lễ lại vung dao chém nhẹ vào gốc cây một nhát làm lý. Hết bài hát, người ta chặt cây tre sao cho phải đổ về phía mặt trời mọc và không được để cho cây tre đổ hẳn xuống đất, vì vậy, sẽ phải có vài thanh niên đỡ cây tre lên vai. Người ta tỉa cành tre chỉ còn lại thân tre nhẵn nhụi. Trên ngọn tre, để nguyên cành lá, không tỉa.
 
Cây tre được vác từ nơi chặt ra thẳng bãi hội. Khi vác tre, người ta phải vác đằng gốc đi trước, ngọn đi sau. Dẫn đầu đoàn vác tre là chủ lễ, xòe ô che đầu, hát bài vác cây nêu. Đoàn đi một mạch đến bãi hội, không nghỉ dọc đường, đặc biệt là kiêng không để cây tre chạm đất khi chưa đến bãi hội.
 
Đến bãi hội, người ta đào hố chôn cây tre. Hố đào phải tránh không được trùng với các vị trí đã đào hố chôn cây nêu từ những năm trước. Ông chủ lễ buộc lên ngọn cây nêu 1dải vải lanh màu đen và 1 dải vải lanh màu đỏ, một bầu rượu, 3 bông lúa nếp và 1 túm cây trồng “sưi”, rồi mọi người cùng dựng cây nêu, ngọn nêu phải quay về hướng mặt trời mọc.
 
Lễ cúng bên cây nêu được diễn ra vào buổi sáng hôm đó. Lễ vật gồm 1 con gà, 1 chai rượu, 1 gói cơm. Chủ lễ thắp hương, đốt tiền mã, cúng báo thần linh biết việc gia đình dựng cây nêu, tổ chức Gầu tào tạ ơn như lời hứa, rồi mọi người cùng hưởng lễ dưới chân cây nêu.
 
Ngày chính hội thường bắt đầu từ mùng 2 đến mùng 4 tết, tùy theo tuổi của gia chủ. Sau nghi lễ cúng bên cây nêu, ông chủ lễ tuyên bố mở màn hội, mọi người tham gia trình diễn và thưởng thức các trò chơi, gồm múa khèn, múa võ. Riêng những đôi trai gái thường say sưa với màn hát hội Chù Gầu tào. Cuộc vui kéo dài đến tối. Khách phương xa có thể về nghỉ tại nhà gia chủ để hôm sau tiếp tục cuộc vui. Đêm hôm ấy, chủ khách thường tổ chức hát đối đáp nam, nữ thâu đêm.
 
Cuộc vui cứ thế tiếp diễn liên tục trong 3 ngày. Chiều ngày thứ ba, chủ lễ hạ cây nêu. Cây nêu được vác về nhà gia chủ. Nghi lễ đón cây nêu diễn ra tại cửa nhà. Chủ lễ đứng ngoài cửa, tay cầm chai rượu treo trên cây nêu và một mẹt thóc lấy từ ba bông lúa treo trên cây nêu tượng trưng cho việc mang phúc, lộc về cho gia đình. Hai thanh niên vác đoạn gốc tre dài bằng chiều dài chiếc giường của người Mông, đứng sau chủ lễ. Gia chủ ở trong nhà rót hai bát rượu chờ sẵn. Cửa nhà đóng chặt. Chủ lễ hát bài mang cây nêu về. Chủ nhà hát bài đón nhận cây nêu, rồi mở toang hai cánh cửa. Chủ lễ đổ rượu, vãi gạo vào trong nhà. Chủ nhà mời chủ lễ uống rượu, rồi trao cho chủ lễ một vuông giấy đỏ, trong có chút tiền để tạ ơn. Chủ lễ trao lại cho gia đình dải vải lanh. Hai thanh niên mang đoạn gốc tre vào giao cho gia chủ. Đoạn gốc tre sau đó sẽ được chủ nhà dùng làm giát giường. Dải vải lanh được dùng để may trang phục cho đứa trẻ hoặc cho người ốm, do hứa làm Gầu tào mới khỏi.
 
Lễ hội Gầu tào là lễ hội lớn nhất và cũng là lễ hội có quy mô cộng đồng duy nhất của người Mông, gắn liền với niềm tin của người Mông về sự ấm no, hạnh phúc. Lễ hội Gầu tào là môi trường nuôi dưỡng văn hóa, văn nghệ dân gian Mông, góp phần gắn kết khối đoàn kết cộng đồng người Mông./.
(Theo báo điện tử Lào Cai)

Tin Liên Quan

Nhiều cách làm hay trong giữ gìn, bảo tồn trang phục, lễ hội tại Lào Cai

Với 25 nhóm, ngành dân tộc cùng 41 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và 2 di sản đại diện nhân loại, Lào Cai là một trong những địa phương có truyền thống văn hóa độc đáo, giàu bản sắc, cũng như sở hữu nhiều di sản văn hóa hàng đầu cả nước.

Sôi nổi Giải vô địch đẩy gậy, kéo co, bắn nỏ tỉnh Lào Cai năm 2024

Giải vô địch đẩy gậy, kéo co, bắn nỏ tỉnh Lào Cai năm 2024 đang diễn ra vô cùng sôi động, hấp dẫn tại thị trấn Si Ma Cai, huyện Si Ma Cai.

Bồi đắp niềm tự hào văn hóa dân tộc

“Tuần lễ trang phục truyền thống các dân tộc” tỉnh Lào Cai năm 2024 diễn ra từ ngày 15/4 – 19/4 đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ các cá nhân, tập thể. Tại các cơ quan, đơn vị, khu dân cư trên địa bàn tỉnh, cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, lao động và người dân thể hiện rõ niền tự hào...

Nghi lễ đặc sắc trong tết Thanh minh của người Bố Y

Người dân tộc Bố Y trên địa bàn tỉnh Lào Cai chỉ có hơn 2000 người, chủ yếu sinh sống ở các xã: Thanh Bình, Nậm Chảy, Tung Chung Phố và thị trấn Mường Khương (huyện Mường Khương). Trong đời sống tâm linh của người Bố Y, tết Thanh Minh “Sứn mìn” đã trở thành nét văn hóa đặc sắc được truyền lại từ...

Đền Quan ghi dấu nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, quân sự

Tọa lạc ở phường biên giới Lào Cai (thành phố Lào Cai), đền Quan là một trong những di tích quan trọng, còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, quân sự. Thuở xưa, đây là nơi ghi dấu công lao to lớn của quân đội nhà Trần do Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy lên trấn ải vùng biên giới Lào Cai.

Hoa văn phượng hoàng trong trang phục của người Nùng Dín

Mỗi một dân tộc đều có những nét độc đáo riêng trong bản sắc văn hóa truyền thống. Với người Nùng Dín ở vùng biên giới Mường Khương (Lào Cai), một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của họ, chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên...