Lào Cai – Từ trung tâm cư trú của người Việt cổ đến trung tâm kết nối giao thương quốc tế
Ngày 20 tháng 12 năm 2024, Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai xây dựng Lào Cai trở thành trung tâm kế nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước Asean với vùng Tây Nam Trung Quốc. Trong đó, thành phố Lào Cai là tâm điểm của hành trình kết nối đó. Nhìn lại dặm dài lịch sử của vùng đất biên cương này để thấy trong các thời kì lịch sử, Lào Cai cũng đều là một trung tâm, điểm kết nối và lan tỏa.Trung tâm cư trú của người Việt cổ
Các cuộc khai quật khảo cổ vào những năm 70, 80 của thế XX, các nhà khảo cổ học đã liên tiếp phát hiện các di tích đồ đá cũ ở Cầu Đen, đồi Công Nghiệp và khu Vĩ Kim bao gồm: công cụ mũi nhọn, công cụ rìu lưỡi ngang, lưỡi dọc, một số công cụ gần giống với rìu tay to. Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ học đều thống nhất khẳng định, các hiện vật thuộc về nền văn hóa Sơn Vi. Cư dân Sơn Vi ở vùng đất thành phố Lào Cai xưa sinh sống chủ yếu bằng săn bắt, hái lượm và trao đổi mua bán với cư dân phía bên kia biên giới. Các phát hiện khảo khổ học vào những năm 90 của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ XXI đã xác định hiện vật tìm thấy ở khu vực thành phố Lào Cai thuộc văn hóa Đông Sơn. Từ thế kỷ thứ VII TCN, người Việt cổ ở Lào Cai đã bắt đầu chuyển từ thời tiền sử chuyển sang thời sơ sử, có nhà nước (Văn Lang) mà nền tảng là văn hóa Đông Sơn. Bước vào thời đại này, cư dân Lào Cai đã có rất nhiều đóng góp để tạo nên nền văn minh nông nghiệp phát triển, đúc đồng và luyện sắt thành thạo với hàng chục chiếc trống đồng và hàng chục loại đồ đồng khác. Sự đa dạng và phong phú của các hiện vật đã cho thấy nơi đây còn là một trung tâm kim khí lớn của thời cổ đại. Từ các phát hiện khảo cổ học, kết hợp nghiên cứu thư tịch cổ, các nhà khoa học thống nhất khẳng định, tại khu vực thành phố Lào Cai hiện nay, xưa kia từng là trung tâm của một bộ tộc lớn với sự hiện diện liên tiếp của các tầng văn hóa.
Ngoài ra, các hiện vật khảo cổ học phát hiện được ở thời kỳ này cũng bước đầu thể hiện sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Lào Cai với khu vực Vân Nam (Trung Quốc). Năm 2005, Các hiện vật Đông Sơn trong ngôi mộ được phát hiện tại phường Kim Tân (thành phố Lào Cai) được xác định có một số đặc điểm của của văn hóa Hán. Đồng thời, nhiều vỏ ốc tiền có xuất xứ từ Vịnh Bắc Bộ đã có mặt ở Vân Nam vào thời kỳ này. Điều này đã cho thấy, với vị thế cửa ngõ biên giới và có huyết mạch sông Hồng, Lào Cai đã trở thành một trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa của khu vực. Lào Cai là trung tâm chuyên chở nguyên liệu quặng đồng từ thượng nguồn Lào Cai và Vân Nam (trung Quốc) xuôi về châu thổ Bắc Bộ, cũng như chuyên chở sản vật biển (vỏ ốc tiền, muối) và các sản phẩm từ nông nghiệp đồng bằng phì nhiêu Bắc Bộ Việt Nam lên Lào Cai sang Vân Nam.

Ngã ba sông đầu thế kỉ XX (ảnh tư liệu)
Phố cũ
Tư liệu thành văn về vùng cửa khẩu Lào Cai được xuất hiện từ thời Nguyễn với ghi chép của các sử gia triều Nguyễn. Đại Nam Nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn nhắc đến “Cửa quan Bảo Thắng ở địa phận xã Sơn Yên, lỵ sở châu Thủy Vĩ, chỗ hai ngọn nước sông Thao và sông Ngân hợp lưu, gần đấy có phố Bảo Thắng, giáp cửa Hà Khẩu nước Thanh”. Cuốn sách Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật biên soạn năm 1856 có xác nhận châu Thủy Vĩ có 08 động, 01 phố, 01 vạn chài. Một phố ở đây là phố Bảo Thắng. Đồng Khánh địa dư chí có viết, thời kỳ này có 2 phố là: phố Minh Hương (phố của người Hoa) và phố Bảo Thắng (phố người Kinh).
Có thể thấy, trong tất cả những ghi chép về vùng cửa khẩu Lào Cai đều xuất hiện tên gọi “Phố”. Tiếng Quan thoại gọi là Lão Nhai. Ngày 22/2/1902, người Pháp đã lựa chọn xây dựng khu vực này thành khu phố trung tâm của đạo lị Đạo quan binh số 4, sau đó là đô thị tỉnh lị Lào Kay. năm 1907, tỉnh dân sự Lào Kay được thành lập với trung tâm là khu đô thị đã được thiết lập từ năm 1902. Tại vùng trung tâm đô thị quy tụ đủ hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy. Tạo nên một không gian vùng biên sôi động.

Cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu (Trung Quốc). Ảnh minh hoạ: Ngọc Bằng
Thành phố biên giới
Trên nền của khu phố cổ đó, thị xã Lào Cai được thành lập sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng và trở thành thị xã tỉnh lị của tỉnh Lào Cai đến năm 1975. Sau khi hợp nhất 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, giai đoạn từ năm 1976 đến đầu năm 1979, trung tâm tỉnh lị đặt tại tỉnh thị xã Lào Cai. Năm 1991, tỉnh Lào Cai được tái lập, ngày 1 tháng 9 năm 1992, thị xã Lào Cai được tái thành lập, là thị xã tỉnh lị của tỉnh Lào Cai. Trước nhu cầu mở rộng không gian trung tâm tỉnh lị, đáp ứng sự phát triển của tỉnh Lào Cai nói chung, năm 2004, thành phố Lào Cai được thành lập trên cơ sở sáp nhập thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường. Vùng phố cũ được quy hoạch trở thành khu kinh tế cửa khẩu và là khu vực tạo động lực cho sự phát triển của hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu đã tạo nên sự năng động của một thành phố biên giới, tiếp nối không gian giao thương tấp nập trong lịch sử. Cầu Hồ Kiều II được thành lập dành cho người đi bộ, cầu Hồ Kiều cũ dành cho hoạt động đường sắt. Xây dựng mới cầu Kim Thành, cửa khẩu quốc tế đường bộ số II được thành lập đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia và các quốc gia trong khu vực. Thành phố Lào Cai là thành phố duy nhất trong cả nước có cặp cửa khẩu quốc tế đường bộ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong khu vực khu kinh tế cửa khẩu đã hình thành khu du lịch tâm linh với hai di tích trọng điểm của thành phố là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia Đền Thượng và Di tích lịch sử cấp tỉnh Đền Mẫu. Các di tích thuộc tín ngưỡng Thờ Mẫu và tín ngưỡng Đức Thánh Trần – những tín ngưỡng nội sinh, truyền thống của dân tộc Việt Nam như những cột mốc văn hóa nơi biên giới.
Từ một điểm quần cư lớn thời nguyên thủy, trung tâm kim khí mạnh thời Đông Sơn, phố cũ thời Nguyễn, đô thị tỉnh lị thời thuộc Pháp đến thành phố biên giới, suốt chiều dài lịch sử ấy, thành phố Lào Cai luôn gắn liền với phố, với sự nhộn nhịp, sầm uất, là tâm điểm của giao lưu, hội tụ, kết nối và lan tỏa./.